Nói “Bí ẩn” vì có lẽ bởi tờ báo tồn tại trong thời gian quá ngắn và cho đến nay ít ai tận mắt thấy “diện mạo” của tờ báo này. Phan-Yên-Báo vừa ra đời đã dũng cảm đăng những tuyến bài phê phán chủ nghĩa thực dân, nên lập tức nhà cầm quyền thực dân Pháp lúc bấy giờ đã đình bản báo.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, về thời gian ra đời và chấm dứt của tờ báo này không thống nhất. Tìm hiểu các bài viết, tư liệu đề cập đến sự tồn tại của Phan Yên báo có một số quan điểm như trong bảng sau[1]:
TT | Các nguồn ý kiến | Thời gian ra đời | Thời gian bị đình bản |
1 | Huỳnh Văn Tòng | 1898 | 1898 |
2 | Bằng Giang | 1898 | 1899 |
3 | Bùi Đức Tịnh | 1898 | Không rõ |
4 | Nguyễn Q. Thắng | 1897 hoặc 1898 | - |
5 | Đỗ Quang Hưng | Tháng 12/1899 | - |
6 | Nguyên Thăng | - | Sau 16/2/1899 |
7 | Minh Hiền | Tháng 12/1898 | Tháng 2/1899 |
8 | Chính Đạo | - | Ngay sau Nghị định ngày 30/12/1898 |
9 | Trần Đình Ba[2] | Cuối 1898 | Đầu 1899 |
10 | Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam | 1898 | - |
11 | Nguyễn Vy Khanh | 1/12/1898 | Bảy số thì bị cấm[3] |
Còn về người sáng lập và làm chủ bút, dù ít ai được tận mắt thấy tờ báo, song hầu như tất cả tác giả có ý kiến nêu trên đều thống nhất rằng Diệp Văn Cương là người sáng lập và làm chủ bút Phan-Yên-Báo.
![]() |
Ảnh chụp mục từ "Phan Yên báo" trong "Từ điển Bách khoa Việt Nam" |
Vậy có đúng Diệp Văn Cương là người “sáng lập và làm chủ nhiệm” báo Phan Yên không và tờ báo này ra đời, bị đình bản khi nào, vẫn là câu hỏi cần được làm sáng tỏ.
Dưới đây chúng tôi cung cấp thêm một số tư liệu liên quan nhằm góp phần trả lời câu hỏi đó.
1. Về thời gian ra đời
Khi tìm hiểu báo Nam Kỳ[4], chúng tôi bắt gặp sau mục “Tạp vụ” trong số 65 (ra ngày 19/1/1899) của báo này một lời chúc mừng báo mới của chủ bút Nam Kỳ, với nội dung: “Có một tờ nhựt-báo quấc-ngữ, đặt hiệu là Phan-Yên-Báo, mới in ra được vài số đầu. Nhơn dịp ấy, ta xin tặng chúc cho tờ nhựt-báo mới này được bá niên phát đạt.” (xem screenshot).
![]() |
Tin về sự ra đời của Phan-Yên-Báo trên báo Nam Kỳ ra ngày 19/1/1899 |
Lúc bấy giờ (nửa cuối thế kỷ 19) “nhựt-báo” hay “nhựt trình” có thể là tuần báo, ra mỗi tuần một số, như với báo Nam Kỳ là “Nhựt trình mỗi tuần lễ in một lần nhằm ngày thứ năm” được ghi trên măng sét của tờ báo. Hoặc cũng có nghĩa là mỗi tháng một số, như với Gia-Định báo thời kỳ đầu, qua lời của chủ bút E. Potteaux trong một thông báo ở Gia-Định báo số 3/1866 “Tôi xin mấy thầy thông ngôn Lang-sa và thông ngôn Annam mỗi tháng phải gửi một hai chuyện gì để mà đem vào Nhựt-trình Annam (tức Gia Định Báo-VXQ), chúng tôi hàng lo cho được mỗi tháng cứ ngày rằm thì phát Nhựt-trình, nhưng mà chúng tôi không đủ chuyện mà đam vào Nhựt-trình, bởi đó cho nên mới trễ ra như vậy”.
Như vậy, từ thông tin “Phan-Yên-Báo mới in được vài số” trên báo Nam Kỳ ngày 19/1/1899, ta có thể đoán số đầu tiên của Phan-Yên-Báo được in ra trước đó khoảng 2 tuần, tức tuần đầu tiên của tháng 1/1899 (nếu mỗi tuần báo này ra 1 số, như Nam Kỳ); hoặc cuối tháng 12/1898 (nếu mỗi tháng ra 1 số, như Gia-Định Báo). Tuy nhiên, khả năng thứ nhất có vẻ hợp lý hơn[5].
2. Về thời gian bị đình bản
Cũng trên báo Nam Kỳ, chúng tôi tìm thấy trong mục “Tiểu tự” (trả lời bạn đọc) của số 83 (ra ngày 1/6/1899) trả lời một bạn đọc có tên viết tắt T.X của chủ bút báo Nam Kỳ về việc người này không nhận được Phan-Yên-Báo dù đã trả tiền mua khiến người này phải liên lạc với chủ bút báo Nam Kỳ để được giúp đỡ. Nội dung trả lời như sau (xem screenshot):
![]() |
Screenshot trả lời một bạn đọc về Phan-Yên báo trong “Nam Kỳ” số 83 ra 1/6/1989 |
Nội dung trả lời trên của chủ báo Nam Kỳ cho chúng ta biết hai thông tin về báo Phan Yên: 1. Báo này đã bị cấm và không còn phát hành trước ngày 1/6/1899; 2. Cho đến lúc này (tức 1/6/1899) chủ nhân của báo Phan Yên đã “qua đời”.
Nếu đúng là “Phan-Yên-Báo chỉ xuất bản được 7, 8 số thì bị cấm” như nhiều người viết, thì thời gian bị đình bản là cuối tháng 2/1899 (nếu báo ra mỗi tuần 1 số), và tháng 5/1899 (nếu báo ra mỗi tháng 1 số). Khả năng thứ nhất cao hơn và có vẻ phù hợp với “trí nhớ” của Diệp Văn Kỳ, vì ông tổng thống Pháp Felix Faure tạ thế ngày 16/2/1899, như ông viết trong cuốn sách “Chế độ báo giới Việt Nam sáu mươi sáu năm sau”[6].
3. Người sáng lập và chủ nhiệm Phan-Yên-Báo không thể là Diệp Văn Cương
Trở lại với trả lời bạn đọc của báo Nam Kỳ như trong screenshot ở trên, chủ bút báo Nam Kỳ có viết “chủ nhân nhựt trình ấy (tức Phan-Yên-Báo) đã qua đời rồi.” Trong khi đó ông Diệp Văn Cương còn sống sang cuối thập kỷ thứ 2 của thế kỷ 20, đến đầu năm 1918. Diệp Văn Cương là người cùng thời và “chỗ quen biết” với Alfred Schreiner (1852-1911), chủ bút báo Nam Kỳ, vì là người từng cộng tác với báo này và có bài viết trong số đầu tiên, ra ngày 21/1/1897 của Nam Kỳ. Như vậy, thông tin về việc chủ nhân Phan-Yên-Báo đã qua đời của A. Schreiner có thể tin cậy được và người đó không phải là Diệp Văn Cương. Từ đây có thể nghĩ rằng Diệp Văn Cương không phải là “người sáng lập và chủ nhiệm của báo Phan-Yên” như nhiều người viết lâu nay.
Nhân đây, chúng tôi thấy cần minh xác về năm mất của Diệp Văn Cương. Thông tin được phổ biến lâu nay là Diệp Văn Cương mất năm 1929[7]. Nhưng trong biên bản cuộc họp Hội đồng Thuộc địa (HĐTĐ) năm 1918 có một bài phát biểu của M. Rimaud, chủ tịch Hội đồng, mở đầu cuộc họp ngày 29/5/1918 về việc Diệp Văn Cương tạ thế. Rimaud nói “Thưa các ngài, Kể từ phiên họp thường lệ gần đây nhất của chúng ta, Hội đồng chúng ta đã phải hứng chịu một cái tang thương xót. Chúng ta đã mất đi vị đồng nghiệp của mình, ông Diệp-văn-Cương, bị lâm trọng bệnh và chúng tôi biết tin ông qua đời vì lâm trọng bệnh. Khi đó tôi vắng mặt ở Sài Gòn và ông Ardin đã tận tình ý đến Bến Tre để dự tang lễ người đồng nghiệp quá cố của chúng ta và chuyển lời chia buồn của Hội đồng chúng ta đến gia quyến người đã khuất.”[8]
Biên bản cuộc họp Hội đồng Thuộc địa ngày 5/10/1917 vẫn còn ghi ông Diệp Văn Cương tham dự và các phát biểu của ông. Nhưng từ biên bản cuộc họp ngày 29/5/1918 trở đi, trong danh sách những người dự họp Hội đồng không có tên Diệp Văn Cương nữa. Như vậy, đúng là Diệp Văn Cương đã mất vào tháng 5/1918, chứ không phải năm 1929. Học giả Vương Hồng Sển cũng đã nhớ nhầm về năm Diệp Văn Cương mất, khi viết trong sách “Sài Gòn năm xưa” rằng: “Khoảng năm 1919, dạy sử học, ông (tức Diệp Văn Cương-VXQ) lấy Sử Diễn Ca Lê Ngọc Cát ra bình chú, dạy Việt Văn ông đã biết đem những đoạn xuất sắc trong Kiều, Lục Vân Tiên, và Chinh Phụ Ngâm ra giải thích cũng là mới lạ.”[9]
Cách đây 85 năm, Phan Khôi từng viết về Diệp Văn Cương trên báo “Sông Hương”, số 20 ra ngày 12 Décembre 1936: “Ông Kỳ là con trai cụ Diệp Văn Cương, một người Nam Kỳ từng có công trạng với nhà nước Bảo hộ.” Nhận xét này có cơ sở vì con đường quan lộ của Diệp Văn Cương rất hanh thông: tháng 9/1893 ông mới được bổ là "thơ ký thí sai" tại Bến Tre; tháng 10/1897 đã là "thông sự hạng nhì chức tây" và được cử làm thuộc viên trong "Hội đồng khảo hạch các thơ ký annam xin thi phần thưởng về sự biết tiếng phương đông" (xếp trước Paulus Của) trong Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ ngày 14/9/1898 (trước khi Phan Yên báo phát hành chưa đầy nửa năm). Đến năm 1904, Diệp Văn Cương trở thành thành viên của HĐTĐ hay Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ và giữ chức vụ này cho đến lúc qua đời, trong 14 năm liền.
![]() |
Screenshot từ Gia Định Báo, số ra ngày 27/9/1898 |
Vào năm 1899 (chính xác là ngày 1/7/1899, tức khoảng 5 tháng sau khi Phan-Yên báo bị cấm), ông Diệp Văn Cương cũng được thống đốc Nam Kỳ cử làm thuộc viên trong hai "Hội giám-khảo" khác để "Khảo hạch các học trò và các thơ ký annam về sự thông thạo các tiếng phương Đông để lãnh thưởng" như được đăng trong báo Nam Kỳ năm 1899, số 89 (xem screenshot dưới đây). Như vậy, nếu là người mang bút danh "Cuồng Sĩ" và làm chủ Phan-Yên báo với những bài viết chống chính quyền bảo hộ như nhiều người nói, chắc chắn ông Diệp Văn Cương không thể có tên trong hai Hội đồng này.
![]() |
Screenshot hai Nghị định cùng đăng trên báo Nam Kỳ số 89 (13/7/1899) |
Trong một bài viết về lớp tinh hoa người Việt thời Nam Kỳ thuộc Pháp, R. B. Smith có một nhận xét đáng chú ý: “giới tinh hoa Việt Nam ở Nam Kỳ thuộc Pháp rất lệ thuộc vào người Pháp) có lẽ tất yếu là như vậy.”[10] Diệp Văn Cương là một trong sáu thành viên người Việt trong Hội đồng Thuộc địa (từ 1904-1918), một trong số ít những người được hưởng sự giáo dục của Pháp và trở thành “cộng sự” (nguyên văn tiếng Pháp là “collaborateur”) khả tín của chính quyền Thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ.
Nhận xét về vị thế và quan điểm của các thành viên người bản xứ trong Hội đồng thuộc địa, trong cuốn sách “The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and Response (1859-1905)”[11], tác giả Milton E. Osborne có viết: “Bất chấp sự khó chịu mà họ để lộ trong Hội đồng Thuộc địa, các thành viên người Việt vẫn thường nói về tiếng Pháp và vai trò của Pháp ở Nam Kỳ với cùng một giọng điệu.” (tr. 53)
Câu hỏi có thể đặt ra là liệu một “Ông Hội đồng” của HĐTĐ lúc bấy giờ có thể làm chủ một tờ báo với chủ trương chống đối chính quyền Pháp khiến tờ báo bị cấm không? Mặt khác, sau khi tờ báo có “những bài có tư tưởng chống đối chính quyền” bị cấm, người sáng lập, chủ bút và “tác giả” bài chống đối có thể giữ được vị trí thành viên trong Hội đồng Thuộc địa nữa không?
Trong cuốn sách vừa dẫn ở trên, Osborne đã dẫn lại từ biên bản cuộc họp ngày 14/10/1902 của HĐTĐ một phát biểu đáng chú ý của ông Diệp Văn Cương: “Khi Giám mục Công giáo Mossand cho rằng việc chú trọng giảng dạy bằng tiếng Pháp, theo yêu cầu của chính quyền thuộc địa, đã tạo ra những người Việt Nam ít trung thành nhất với Pháp, một thành viên Việt Nam của Hội đồng, Diệp-Văn-Cương đã phản đối: “Những từ ấy xuất phát từ người đứng đầu Giáo hội Công giáo ở Nam Kỳ... và tạo thành một lời buộc tội rất nghiêm trọng đối với tất cả những người An Nam đã được thừa hưởng lợi ích của nền văn minh Pháp, như tôi.” (Osborne, sđd., tr.53)
Ở một chỗ khác, khi dẫn ý kiến không đồng tình với ông Trần Bá Thọ (một trong những thành viên người Việt khác của HĐTĐ) cho rằng cần dạy đạo lý Nho giáo cho học sinh người Việt Nam bằng chữ Nho, Osborne viết: “Không phải mọi người thuộc thế hệ ông Thọ đều chia sẻ quan điểm của ông ấy. Ông Hội đồng Diệp Văn Cương, phát biểu tại Hội đồng Thuộc địa năm 1906 rằng, ông không thấy có lý do gì khiến không thể giảng dạy các châm ngôn của triết lý Khổng học bằng tiếng Pháp,“công cụ của nền văn minh.” (Osborne, sđd., tr.166).
Từ hai lời phát biểu tại hai cuộc họp được dẫn trên, có thể thấy ông Diệp Văn Cương là một trong những cộng sự ủng hộ chủ trương dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ giảng dạy trong trường học ở Nam Kỳ thời kỳ đầu. Đó là chủ trương nhằm thực hiện chính sách đồng hóa (assimilation) theo quan điểm của các nhà cai trị quân sự thời kỳ đầu, được Étienne Aymonier, giám đốc Trường Thuộc địa Paris, ủng hộ với tuyên bố “Mục đích của nước Pháp, là cải tạo chủng tộc Việt Nam và mở rộng đầu óc của họ để thừa kế các ưu thế của nền văn minh Âu Châu. Để đạt được mục đích này, phương thức an toàn nhất là dạy tiếng Pháp và phổ biến sự sử dụng ngôn ngữ đó ở bất kỳ nơi đâu có thể làm được.” (Osborne, sđd., tr.164). Điều này khiến chúng tôi thấy khó tin ông Diệp Văn Cương là người “viết bài chống chủ nghĩa thực dân”.
Về Diệp Văn Cương, một tác giả khác là Huệ-Tâm Hồ Tài có viết: “Cuộc tranh luận (về quyền nhập quốc tịch Pháp và bầu cử cho người dân Nam Kỳ-VXQ) được Diệp Văn Cương, một trong sáu thành viên bản xứ của Hội đồng Thuộc địa khởi xướng vào tháng 9 năm 1917. Trong một bài phát biểu dài đáng chú ý vì tinh thần đồng hóa của nó, Diệp đã vạch ra một chương trình cải cách toàn diện cho Nam Kỳ: các làng xã nên được tổ chức thành các địa phương đúng theo kiểu Pháp với các hội đồng dân cử; những gì còn lại của chế độ quan lại cũ cần bãi bỏ để có một bộ máy hành chính hiện đại hơn; số lượng viên chức phụ tá người Việt cần bãi bỏ và số còn lại nên được tăng lương đáng kể. Một juge de paix (tòa án hòa bình) nên được bổ nhiệm ở mọi tổng, quyền lực tư pháp và hành chính nên được tách biệt; Luật nhập tịch năm 1913 nên được thay thế bằng một đạo luật tự do hơn. Cuối cùng, Hội đồng Thuộc địa nên bao gồm nhiều người bản xứ hơn trong số thành viên, và số người được bầu cử nên được tăng thêm.”[12]
Trong số các thành viên người Việt của HĐTĐ, không ai giữ được vị trí lâu dài như Diệp Văn Cương, với 14 năm. Thâm niên này đã nói lên sự “tín nhiệm” của Hội đồng về tinh thần hợp tác và phục vụ “mẫu quốc” của Diệp Văn Cương. Thật vậy, trong phát biểu của chủ tịch Hội đồng Thuộc địa tại cuộc họp năm 1918 mà phần mở đầu chúng tôi dẫn ra ở trên, Rimaud nói tiếp “Ông Ardin đã đọc trước mộ của ông Cương một bài điếu văn, trong đó ông bày tỏ sự tiếc thương đối với người đồng nghiệp bất hạnh và lòng kính trọng cao quý mà tất cả chúng ta dành cho ông. Trong vòng 14 năm, ông Diệp-văn-Cương, là thành viên của Hội đồng Thuộc địa, nơi mà tầm hiểu biết và kinh nghiệm tuyệt vời cũng như nhân cách cao quý của ông, đã để lại cho ông một vị trí đặc biệt trong lòng mỗi người chúng ta. Hội đồng Thuộc địa chịu đựng một mất mát nặng nề; và bằng cách nói đến những kỷ niệm đẹp đẽ để tưởng nhớ người đồng nghiệp của chúng ta, tôi xin gửi đến bà quả phụ và gia đình của ông ấy những lời chia buồn sâu sắc của chúng ta.”
Đóng góp của ông Diệp Văn Cương với HĐTĐ còn được ghi nhận trong biên bản một cuộc họp khác của Hội đồng này vào tháng 11/1918 (tức 5 tháng sau khi Diệp Văn Cương mất), qua một ý kiến đề nghị lấy tên Diệp Văn Cương để đặt cho một con đường hoặc một địa điểm ở Bến Tre, quê hương ông ấy, để tưởng nhớ ông, như trong screenshot dưới đây.
![]() |
Screenshot từ biên bản cuộc họp HĐTĐ tháng 11/1918 |
3.4. Cuốn sách “Chế-độ báo-giới Nam-Kỳ năm mươi sáu năm sau” của Diệp Văn Kỳ (1895-1945) được xuất bản năm 1938, lúc ông 43 tuổi. Báo Phan-Yên ra đời và đóng cửa năm 1899, khi ông 4 tuổi. Cha ông là Diệp Văn Cương qua đời năm 1918, lúc Diệp Văn Kỳ 23 tuổi. Tuy Diệp Văn Kỳ không nói ông đọc số Phan-Yên-Báo có đăng tin về việc Tổng thống Pháp mất khi nào, song nếu đó là tờ báo do Diệp Văn Cương sáng lập và làm chủ nhiệm, khó có thể tin Diệp Văn Kỳ không biết, không nhớ và không nhắc đến trong cuốn sách của ông!
Trong cuốn sách đó, Diệp Văn Kỳ đặt câu hỏi: “Phan-Yên-Báo xuất bản năm nào và có xin phép trước không?” Đáng chú ý là ông nói “Tôi đã hết sức sưu tầm, vẫn chưa kiếm ra tông tích chỉ đích xác” (Diệp Văn Kỳ, sđd., tr.23). Đây cũng là một lý do khiến chúng ta nghi ngờ ý kiến cho rằng cha ông, Diệp Văn Cương, là người sáng lập và làm chủ bút báo Phan Yên. Có lẽ vì nghi ngờ như thế nên trong bài viết (xem chú thích 1), tác giả Trần Đình Ba không nhắc đến Diệp Văn Cương và không nói ai là chủ bút báo Phan Yên.
Với những tư liệu dẫn ra trên đây, có thể thấy thời gian ra đời và bị cấm của Phan-Yên-báo đã dần dần được sáng tỏ. Nhưng câu hỏi ai là người sáng lập và chủ bút của tờ báo này vẫn còn để ngỏ. Tuy nhiên, điều chắc chắn rằng người đó không phải là ông Diệp Văn Cương như được nói đến lâu nay mà là một ai đó khác, và có thể là “mấy người bổn-sở ẩn danh mà đặt nó ra” như chủ nhân và chủ bút báo Nam Kỳ đã viết từ năm 1899?
Hy vọng sẽ có những nhà nghiên cứu khác cung cấp thêm thông tin về vấn đề này!
Võ Xuân Quế
(Từ Helsinki)
[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Y%C3%AAn_b%C3%A1o
[2] https://plo.vn/van-hoa/nha-bao-diep-van-ky-va-to-phan-yen-bao-cuoi-the-ky-xix-953851.html
[3] http://www.hobieuchanh.com/pages/baiviet/NguyenVyKhanh/baochiVN_nvk.html
[4] https://nghiencuulichsu.com/2021/04/22/nam-ky-to-bao-quoc-ngu%CC%83-cuoi-the-ky%CC%89-19-con-it-duo%CC%A3c-biet-den/
[5] Theo Huỳnh Văn Tòng, Phan-Yên-Báo là “Báo tuần chỉ ra vài số thì chết (khoảng đầu 1899)”, dẫn từ “Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Báo chí Việt Nam (từ khởi thủy đến năm 1945)”, Khoa Báo chí Đại học mở bán công TP HCM. 1995, tr. 31
[6] Diệp Văn Kỳ, Chế-độ báo-giới Nam-Kỳ năm mươi sáu năm nay, Saigon 1938
[7] https://vi.wikipedia.org/wiki/Di%E1%BB%87p_V%C4%83n_C%C6%B0%C6%A1ng
[8] Procès-verbaux du Conseil colonial: session extraordinaire de 1918, séance du mercredi 29 Mai 1918
[9] Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa (https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nmnqnqn0n31n343tq83a3q3m3237nvn)
[10] R. B. Smith, The Vietnamese Elite of French Cochinchina, 1943, Modern Asian Studies 6 4 (I972), pp. 459-482
[11] Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and Response (1859-1905), Cornell University Press, Ithaca 1969
[12] Huệ-Tâm Hồ Tài, The Politics of Compromise: The ConstitutionalistP arty and the Electoral Reforms of 1922 in French Cochinchina, Modern Asian Studies, Vol. 18, No. 3 (1984), pp. 371-391.