![]() |
Quang cảnh hội thảo Đánh giá 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. |
Báo cáo VPE500 đưa ra bức tranh tổng quan về các doanh nghiệp tư nhân lớn nhất ở Việt Nam (VPE500), Xác định danh mục những VPE lớn nhất trong nền kinh tế; đánh giá đặc điểm, phân bố, biến động kết quả hoạt động, xác định vai trò đóng góp lan tỏa trong khối doanh nghiệp tư nhân, đề xuất những chính sách phát triển doanh nghiệp lớn. Báo cáo lần đầu tiên về VPE500 đã được công bố năm 2022 được xác định dựa trên ba tiêu chí: quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu gộp. Chỉ số sử dụng cho xếp hạng là trung bình cộng của thứ hạng theo ba tiêu chí trên.
Tại hội thảo, đánh giá cao vai trò và đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam, ông Nguyễn Quốc Trường, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đến cuối năm 2021, doanh nghiệp tư nhân trong nước thu hút 58,1% số lao động, chiếm 59,3% tài sản và tạo ra 57,8% doanh thu thuần của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
![]() |
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển Nguyễn Quốc Trường phát biểu tại Hội thảo. |
Trong khối doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, các doanh nghiệp quy mô lớn có vai trò đặc biệt quan trọng; nhóm VPE500 được kỳ vọng như một lực lượng dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trên thị trường; hoạt động của các doanh nghiệp này được kỳ vọng có thể định hình mô hình kinh doanh và tăng trưởng, cải tiến công nghệ, tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu…
Ông Florian Constantin Feyerabend, Trưởng Đại diện Konrad-Adenauer-Stiftung Việt Nam cho biết Báo cáo không chỉ phân tích các doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam đã có những thay đổi như thế nào trong bối cảnh đó, khả năng chống chịu của họ ra sao, mà còn trả lời câu hỏi họ có phải là trụ đỡ cho phát triển của các doanh nghiệp tư nhân nói chung hay không.
![]() |
![]() |
Ông Florian Constantin Feyerabend, Trưởng Đại diện Konrad-Adenauer-Stiftung Việt Nam |
Theo Báo cáo năm 2023, Doanh nghiệp tư nhân phần lớn là các doanh nghiệp được thành lập sau đổi mới, có quy mô nhỏ và vừa, tại thời điểm ngày 31/12/2021, Việt Nam có 694,2 nghìn doanh nghiệp tư nhân trong nước (VPE), chiếm 96,6% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động; thu hút 58,1% số lao động, chiếm 59,3% tài sản và tạo ra 57,8% doanh thu thuần của khối doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu trên nhóm 500 doanh nghiệp này cho thấy, mặc dù xuất hiện ở 53/63 tỉnh, thành phố, 75% số doanh nghiệp tập trung nhiều ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ và có xu hướng tăng nhẹ. Hai trung tâm kinh tế lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội và một số địa phương có mật độ doanh nghiệp cao như Bình Dương, Đồng Nai, Hưng Yên chiếm khoảng 50-52% tổng số. Nhìn chung, VPE500 đang được hình thành dựa trên các lợi thế hạ tầng, nguồn lực và thị trường của các địa phương, tập trung nhiều nhất ở ngành Công nghiệp chế biến chế tạo (CBCT), Thương mại và Xây dựng.
![]() |
TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Quốc tế, Viện Chiến lược phát triển chia sẻ kết quả Báo cáo VPE500 |
Đại diện nhóm nghiên cứu, Tiến sỹ Nguyễn Toàn Thắng, Trưởng ban Ban Quan hệ Quốc tế, VIDS cho biết so sánh giữa hai năm COVID-19 và một năm trước đó, có biến động khá lớn về số doanh nghiệp ra vào trong danh sách VPE500. Năm 2020, có tới 97/500 doanh nghiệp (19,4%) đã không còn trong xếp hạng VPE500 của năm 2019.
Tiến sỹ Nguyễn Toàn Thắng, Trưởng ban Ban Quan hệ Quốc tế, VIDS trả lời phỏng vấn báo giới bên lề hội thảo
Những doanh nghiệp này tập trung vào nhóm ngành mà bị ảnh hưởng nhiều bởi COVID-19 như bất động sản và xây dựng (23/89), thương mại (15/73), dệt may (7/32), chế biến thực phẩm (9/70). Chỉ có một số ít ngành vẫn giữ được số lượng thuộc VPE500 là những ngành được đánh giá là hưởng lợi trong COVID-19 như thông tin truyền thông, bưu chính, sản xuất và phân phối điện.
![]() |
Phân bố theo ngành của các doanh nghiệp VPE500 |
Đến năm 2021, tiếp tục có tới 61 doanh nghiệp nữa rời khỏi danh mục, nâng tổng số rời đi sau hai năm lên tới 158, tương đương 31,6%, và vẫn tập trung vào các nhóm ngành bị ảnh hưởng nặng ở trên.
Bên cạnh đó, ngay cả với các doanh nghiệp vẫn còn duy trì trong bảng xếp hạng, thứ hạng của các doanh nghiệp này cũng giảm đi nhanh chóng, tỷ lệ giảm trên 50 bậc là trên 60%. Tỷ lệ ra khỏi danh mục chung của ngành công nghiệp chế biến chế tạo là 25,3%, thấp hơn tỷ lệ chung là 28,0%.
Hầu hết các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm vẫn giữ được vị trí trong bảng xếp hạng, đây cũng là nhóm có xếp hạng cao và ít thay đổi về thứ bậc. Tương tự, doanh nghiệp thuộc TOP50 vẫn giữ được xếp hạng và thứ hạng cũng ít thay đổi hơn.
Rõ ràng, trong giai đoạn COVID-19, mức độ ổn định của VPE500 có cao hơn, ngụ ý rằng các doanh nghiệp lớn vẫn duy trì tốt được vị thế của mình trên thị trường so với nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa.
![]() |
So sánh tốc độ tăng trưởng tài sản của các doanh nghiệp và nhóm VPE500 |
Báo cáo cũng chỉ ra trung bình giai đoạn 2019-2021, quy mô lao động cao gấp 160 lần và tổng tài sản bình quân của một doanh nghiệp thuộc VPE500 cao gấp khoảng và 376 lần doanh nghiệp tư nhân trong nước nói chung.
Nhờ quy mô và kết quả hoạt động vượt trội nên VPE500 chiếm tỷ lệ nhỏ về số lượng doanh nghiệp nhưng đóng góp lớn vào hoạt động của doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Bình quân giai đoạn 2019-2021, VPE500 chỉ chiếm 0,075% tổng số doanh nghiệp tư nhân trong nước nhưng tạo việc làm cho 12% lao động, chiếm 28% tổng tài sản, tạo ra 18,4% doanh thu gộp và đóng góp 18,4% nộp ngân sách của nhóm doanh nghiệp tư nhân trong nước.
![]() |
Tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo và tự động hóa trong các nhóm doanh nghiệp |
Cũng theo báo cáo, phân tích về VPE500 và quan hệ với doanh nghiệp tư nhân trong nước nói chung cho thấy, cần thiết phải có những chính sách cụ thể hơn nữa để xây dựng được một lực lượng các doanh nghiệp tư nhân lớn, phát triển ổn định, chống chịu được các cú sốc lớn từ bên ngoài và làm tăng hiệu quả của toàn nền kinh tế.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương cho rằng muốn xây dựng doanh nghiệp tư nhân dẫn dắt thị trường, Chính phủ phải đưa ra chính sách gì để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
“Chúng ta cần phải lọc 500 doanh nghiệp này, rồi tiếp tục khảo sát để xem doanh nghiệp họ cần gì, thì báo cáo của chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn. Doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường hay quy mô như thế nào… để có giải pháp dù điều này phụ thuộc vào nguồn lực của doanh nghiệp,” ông Tú Anh cho hay./.