![]() |
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, việc chia sẻ thông tin không công bằng giữa các nhóm đối tượng về kế hoạch sử dụng đất (KHSDĐ) và bảng giá đất (BGĐ) là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến đất đai. Nhiều chuyên gia cho rằng, cần cải thiện việc công khai thông tin đất đai thông qua xây dựng hoàn thiện và đồng bộ quy định pháp luật về tiếp cận thông tin và pháp luật về đất đai.
Pháp luật về đất đai và tiếp cận thông tin của Việt Nam đã quy định cụ thể trách nhiệm, quy trình, hình thức và thời hạn công khai thông tin BGĐ cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) cấp huyện và KHSDĐ cấp huyện cũng như cung cấp những nội dung thông tin này theo yêu cầu của người dân.
Nhiều cơ quan Nhà nước ở địa phương đã thực hiện đăng tải công khai bảng giá đất cấp tỉnh và kế hoạch sử dụng đất cấp huyện và đã cung cấp thông tin về kế hoạch sử dụng đất theo yêu cầu của công dân. Tuy nhiên, thông tin cung cấp chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, đồng thời tỷ lệ các tổ chức thực hiện tốt các quy định vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đây là một số kết quả từ “Nghiên cứu thực chứng hướng tới thúc đẩy việc tiếp cận thông tin đất đai của người dân” do Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam và Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW) phối hợp thực hiện từ tháng 7 năm 2021 đến tháng 6 năm 2022.
Nghiên cứu của Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và Nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW) về nội dung công khai thông tin KHSDĐ cấp huyện và BGĐ cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022 cho thấy, người sử dụng, người dân khó khăn trong tìm kiếm thông tin về BGĐ; việc công khai thông tin KHSDĐ cấp huyện và BGĐ cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022 chậm cải thiện tại các địa phương so với năm 2021.
Theo đó, tính tới ngày 6/10/2022, có 41/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (chiếm 65%) đã đăng tải công khai BGĐ trên cổng thông tin điện tử của địa phương, tăng 22,2% so với kết quả rà soát năm 2021. Đối với việc công khai KHSDĐ cấp huyện, trong số 705 UBND cấp huyện được khảo sát, có 55,2% đã công khai KHSDĐ trên cổng thông tin điện tử cấp huyện, tăng khoảng 7% so với kết quả rà soát năm 2021. Trong đó, chỉ có 19 đơn vị ban hành KHSDĐ đúng thời hạn.
Về phản hồi cung cấp thông tin, tính đến ngày 21/2/2023, có 146/561 UBND cấp huyện đã phản hồi theo yêu cầu của công dân. Trong đó, 108 cơ quan phản hồi cung cấp thông tin (chiếm 19%), 6 cơ quan từ chối cung cấp thông tin (chiếm 1%), 32 phản hồi khác (chiếm gần 6%) và 415 cơ quan (tương ứng 74%) không phản hồi. Kết quả này cho thấy, số lượng các cơ quan nhà nước không phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin KHSDĐ của người dân ở mức cao.
Cần thiết quy định đồng bộ, cụ thể
![]() |
Tại Tọa đàm “Đánh giá vòng 2 việc công khai thông tin KHSDĐ cấp huyện và BGĐ cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022” do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam và CEPEW tổ chức, Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam cho biết, kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy, nơi nào thông tin đất đai được chia sẻ công khai, minh bạch và người dân có cơ hội cho ý kiến vào các dự thảo quy hoạch, KHSDĐ, BGĐ, thì nơi đó kiểm soát tốt hơn nguy cơ tham nhũng liên quan đến đất đai, giảm thiểu những bức xúc liên quan đến đất đai, từ đó niềm tin của người dân với chính quyền được cải thiện. Việc chia sẻ thông tin không công bằng cho các nhóm đối tượng về KHSDĐ và BGĐ là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến đất đai.
Việc chậm công bố bảng giá đất, thông tin quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất làm hạn chế việc theo dõi, giám sát từ các bên liên quan, đặc biệt là người dân, dư luận, báo chí.
Lý giải một số nguyên nhân chậm hoặc không công khai thông tin, bà Hoàng Thị Vân Anh, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Tổng cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, nhận thức về vai trò, vị trí của việc công khai thông tin này ở một số địa phương có lúc còn chưa tốt; chế tài xử lý chưa trực diện, tính răn đe không cao. Pháp luật về đất đai cũng chưa quy định đầy đủ các tài liệu cụ thể cần công bố, hướng dẫn kỹ thuật đối với các thông tin buộc phải công khai.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đang trong quá trình lấy ý kiến rộng rãi đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Bà Vân Anh cho rằng, cần thắt chặt mối quan hệ giữa Luật Tiếp cận thông tin và Luật Đất đai theo hướng pháp luật về tiếp cận thông tin quy định khung pháp lý về tiếp cận thông tin; còn việc cung cấp thông tin như thế nào, nội dung, trình tự, thủ tục cung cấp đối với các loại thông tin (miễn phí, trả phí) nên được quy định rõ và cụ thể tại Luật Đất đai. Hiện pháp luật đất đai chỉ yêu cầu công bố đầy đủ nội dung quy hoạch nhưng nội dung đó gồm những gì thì chưa nêu rõ. BGĐ cũng như vậy, cần quy định rõ những tài liệu cần công bố để có cơ sở triển khai thực tiễn.
Về phía CEPEW, cơ quan này khuyến nghị, bổ sung thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin 2016 vào các bộ thủ tục hành chính hiện hành của tất cả các ngành và lĩnh vực (trong đó có đất đai). Bổ sung quy định về thời điểm phê duyệt QHSDĐ cấp huyện trong quy định của pháp luật về đất đai để đảm bảo tính kịp thời và đồng bộ của các quy hoạch và KHSDĐ. Có quy định về việc cơ quan nắm giữ thông tin đất đai có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người dân yêu cầu.
Riêng đối với quy định về thời điểm công khai thông tin đất đai, CEPEW và nhiều chuyên gia tại Hội thảo thống nhất đề xuất giữ nguyên quy định về thời điểm công khai thông tin đất đai (là 15 ngày) như quy định hiện hành (Luật Đất đai 2013) thay vì 30 ngày như trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Các chuyên gia cho rằng, việc công khai thông tin đất đai càng sớm sẽ càng đảm bảo minh bạch, giảm bức xúc cho người dân và giảm tham nhũng trong bộ máy công quyền.
Công khai thông tin đất đai trên môi trường điện tử
![]() |
Hội nghị “Lấy ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học và các tổ chức, đơn vị về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)” do Liên hiệp hội Việt Nam phối hợp tổ chức |
ThS Nguyễn Đình Phúc, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật và Xã hội cho rằng, Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) có nhiều vấn đề cần phải xem xét thêm.
Cụ thể, về trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp thông tin đất đai tại Điều 19, ông Phúc cho rằng, nội dung trong Dự thảo Luật là chưa thỏa đáng, chưa đáp ứng các yêu cầu của xã hội về minh bạch trong quản lý và sử dụng đất đai.
Trong Luật Tiếp cận thông tin 2016 đã có quy định về thông tin công dân được tiếp cận và không được tiếp cận tại điều 5,6,7.
Theo đó, toàn bộ thông tin do Nhà nước tạo ra trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai, bao gồm: các quyết định hành chính, văn bản chấp thuận của cấp có thẩm quyền liên quan đến các dự án có sử dụng đất, quyết định trúng đấu thầu, đấu giá, thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, phê duyệt tài chính về đất đai, báo cáo kết luận thanh tra, kiểm tra, xử phạt, tất cả phải được công khai rộng rãi, đảm bảo minh bạch trong quản lý, sử dụng đất. Đồng thời, việc công khai cần đảm bảo khả năng tiếp cận tối đa cho người có nhu cầu tiếp cận thông tin.
Thông tin càng được công khai bao nhiêu, thì sức ép yêu cầu cung cấp thông tin càng giảm bấy nhiêu, minh bạch tăng đồng nghĩa với khiếu kiện, khiếu nại giảm.
Ở nước ta, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 ra đời đã cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp về quyền tiếp cận thông tin. Đến năm 2021, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về đã khẳng định: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình” là một trong mười hai định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030.
Do đó, đảm bảo công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai là cần thiết và phải được nhấn mạnh hàng đầu trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi.
Theo ông Phúc, cần bổ sung các khoản 4, 5 vào Điều 19 Dự thảo Luật về Trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp thông tin đất đai. Cụ thể như sau:
Toàn bộ thông tin do Nhà nước tạo ra trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai, bao gồm các quyết định hành chính, văn bản chấp thuận của cấp có thẩm quyền liên quan đến các dự án có sử dụng đất, quyết định trúng đấu thầu, đấu giá, thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, phê duyệt tài chính về đất đai, báo cáo kết luận thanh tra, kiểm tra, xử phạt phải được công khai rộng rãi, đảm bảo minh bạch trong quản lý, sử dụng đất.
Ngoài các hình thức công khai khác theo pháp luật về tiếp cận thông tin, cơ quan ban hành phải công khai trên trang thông tin điện tử của cơ quan đó.
“Trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật về đất đai, các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình các thông tin do mình tạo ra theo phân công, phân cấp", ông Phúc cho hay./.