"Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" ra mắt bạn đọc Việt Nam thực sự là món quà ý nghĩa vào dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Phần Lan (1973-2023). Bởi "Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" (nguyên bản tiếng Phần Lan: Sinuhe, egyptiläinen) của nhà văn Mika Waltari được bình chọn là tác phẩm văn học yêu thích nhất của người Phần Lan trong suốt thế kỷ qua và là niềm tự hào của người Phần Lan trên văn đàn thế giới.
Sách dày hơn 1.000 trang được in làm 2 tập: tập 1 gồm 584 trang, tập 2 gồm 624 trang, do TS Võ Xuân Quế và TS Bùi Việt Hoa (hiện sinh sống và làm việc tại Phần Lan) dịch từ nguyên bản tiếng Phần Lan.
"Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" được xuất bản lần đầu tiên năm 1945, chỉ một năm sau đã được tái bản tới 4 lần, tổng cộng 70.000 bản. Cũng trong năm này (1946) cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Thụy Điển, sau đó là tiếng Pháp (1947), rồi tiếng Đức, tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch (1948). Năm 1949 Sinuhe, người Ai Cập được dịch sang tiếng Anh, xuất bản ở Mỹ với tựa đề The Egyptian và dẫn đầu danh sách bestseller ở Mỹ trong 2 năm liền. Đến năm 1954 tiểu thuyết đã được dựng thành phim. Cho đến nay đây là tác phẩm có số lượng sách phát hành nhiều nhất trên thế giới của văn học Phần Lan, và cũng là tác phẩm duy nhất được Hollywood dựng phim.
Với việc ra mắt bản tiếng Việt, "Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" đã được dịch ra 41 ngôn ngữ. Một số ngôn ngữ có tới 3 bản dịch khác nhau như: Slovak, Ba Tư, còn 2 bản thì nhiều hơn. Các bản dịch ra tiếng nước ngoài đã được xuất bản/ tái bản tới 177 lần, trong đó tiếng Đức 32 lần, Tây Ban Nha 24 lần, Séc 18 lần, Ba Lan 15 lần.
![]() |
Hình bìa sách “Người Ai Cập-Quyền lực & Tình yêu” |
Kiệt tác về tình bạn, tình yêu và quyền lực
"Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" là tiểu thuyết lịch sử gồm “Mười lăm sách (chương) kể về cuộc đời danh y Sinuhe những năm 1390-1335 trước Công lịch” (Lời ghi đầu sách), nhưng cũng là mười lăm chương kể về xã hội Ai Cập cổ đại trong thời gian đó qua hồi ức của nhân vật chính Sinuhe.
Sinuhe – người kể chuyện, do tác giả hư cấu nên, là một đứa trẻ bị thả trôi sông, được vợ chồng thầy thuốc nghèo không có con mang về nuôi. Nhờ sự hướng nghiệp của cha nuôi, Sinuhe đã theo học nghề y để nối nghiệp cha chữa bệnh cho người nghèo. Với đôi tay khéo léo và tài chữa bệnh, Sinuhe trở thành một danh y nổi tiếng, bạn và ngự y riêng của Pharaon Ekhnaton, bạn của Tể tướng Horemheb, người sau này cũng trở thành Pharaon.
Nhưng “những gì viết lên các vì sao trong ngày được sinh ra” đã đẩy Sinuhe đến với biết bao thăng trầm, đau khổ và cuối cùng bị chính người bạn mà mình tin tưởng đuổi khỏi quê hương Ai Cập, phải sống hết cuộc đời ở chốn lưu đày. Từ nơi bị giam lỏng ấy Sinuhe đã viết lại những nỗi đắng cay, oan nghiệt cũng như những hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời mình thành cuốn sách này chỉ để “cho mình” và cũng để “gột rửa mình”.
![]() |
Nhà văn Mika Waltari đã 5 lần được trao Giải thưởng Văn học Nhà nước của Phần Lan |
"Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" là câu chuyện tình yêu nam nữ, là câu chuyện về tình bạn giữa Sinuhe với 2 Pharaon của Ai Cập thế kỷ 14 trước công lịch, giữa Sinuhe với Quốc vương tiểu quốc Amori; là câu chuyện về những tranh giành quyền lực trong vương triều và những cuộc chiến tranh dã man, tàn bạo giữa các vương quốc.
Đó là ba mối tình với những cung bậc tình yêu và bi kịch khác nhau của Sinuhe với kỳ nữ Nefernefernefer, với trinh nữ Minea xứ đảo Crete và với Merit, nữ hầu bàn quán rượu ở Thebes, đã được Waltari miêu tả một cách đầy cuốn hút bằng ba chương riêng (Sách thứ tư, Sách thứ bảy và Sách thứ mười một) trong tổng số mười lăm sách của tác phẩm. Ngoài ra người đọc còn bắt gặp tình yêu đơn phương, vụng trộm của Horemheb với công chúa Baketaton, ham muốn nhục dục của quản gia hậu cung Mehunefer với Sinuhe, của Thái hậu Teje với Quốc trượng Eje.
![]() |
Chiếc máy chữ của M. Waltari được trưng bày trong Bảo tàng Dân tộc Phần Lan ở Helsinki (ảnh: Võ Xuân Quế) |
Nhưng, bên cạnh tình yêu nam nữ, tác phẩm còn miêu tả tình yêu vô bờ của Sinuhe đối với thành phố Thebes quê hương và đất nước Ai Cập của ông: “Ai đã từng sinh ra ở Thebes sẽ khát khao trở lại Thebes, bởi lẽ trên trái đất không có thành phố nào giống như Thebes”. Câu nói của Sinuhe “Ai đã từng một lần uống nước sông Nil người đó sẽ khát khao trở lại sông Nil. Nước ở bất cứ nơi nào khác không thể làm anh ta nguôi cơn khát” được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần như một “điệp khúc” trong tác phẩm.
Trước khi bị đày khỏi Ai Cập, Sinuhe nói: “Tôi không hề sợ cô đơn, vì cả đời tôi chỉ có một mình và sinh ra tôi đã cô đơn, nhưng trái tim tôi tan chảy vì buồn khi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ được nhìn lại Thebes, không bao giờ được cảm nhận lớp bùn mềm của đất Kemet dưới chân mình cũng như sẽ không bao giờ được uống nước sông Nile nữa.”
"Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" là cuốn tiểu thuyết lịch sử giàu tính triết lý, là sự kết hợp hết sức hài hòa và hấp dẫn giữa lịch sử huyền bí và cuộc sống đời thường của người Ai Cập cổ đại. Cuộc đời của Sinuhe gắn với dòng họ Amenhotep như một định mệnh. Sinuhe có thể là anh em cùng cha khác mẹ với Ekhnaton và là người bạn từ thủa hàn vi của Horemheb. Sau khi lên ngôi, Ekhnaton lật đổ Amon, vị thần tối cao của Ai Cập và tôn thờ thần mặt trời Aton làm vị thần duy nhất của vương quốc. Tôn giáo mới của Ekhnaton đề cao hòa bình, bác ái và sự bình đẳng giữa mọi người, mọi dân tộc. Nhưng “Cuộc cải cách” đó đã dẫn đến bạo loạn, khiến Ekhnaton dời thủ đô từ Thebes lên Amarna (trong tiểu thuyết là Akhetaton). Là ngự y của pharaon, Sinuhe tháp tùng ngài đến thủ đô mới và lúc đầu hết sức ngưỡng mộ triết thuyết của Pharaon Ekhnaton.
Nhưng, tôn giáo mới một thần Aton duy nhất của Ekhenaton đã đẩy cả vương quốc Ai Cập đến bờ vực thẳm. Chỉ có những cuộc chiến do Horemheb “một kẻ xuất thân thấp hèn” chỉ huy mới khôi phục lại được phần nào sự huy hoàng của vương quốc. Thực tế, trong lịch sử Ai Cập, Horemheb được coi là một trong những pharaon vĩ đại đại nhất của vương quốc.
![]() |
Biển nhà nơi nhà văn M.Waltari sinh ra ở Helsinki (ảnh: Võ Xuân Quế) |
Cuộc đời “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” của Sinuhe còn gắn liền với người hầu Kaptah. Là một ông già chột mắt được Sinuhe mua về từ chợ nô lệ, nhưng Kaptah không chỉ là người đầy tớ trung thành “đồng cam, cộng khổ” với ông chủ “trẻ người, non dạ” mà còn là người bạn, người quản gia và trong nhiều trường hợp là “cố vấn” của ông chủ. Nhờ có sự thông minh, ranh mãnh, của Kaptah mà danh tiếng của Sinuhe được vang xa, Sinuhe cùng Minea và Kaptah an toàn trốn được khỏi Babylon. Nhờ từng trải sự đời và đầu óc thực dụng mà Kaptah đã đưa Sinuhe và sau đó là chính mình giàu lên nhất nhì Ai Cập. Rồi cũng chính nhờ Kaptah mà Sinuhe mới “sáng mắt ra”, được biết bé Thoth chính là con trai của mình với Merit, hiểu được những mưu mô xảo quyệt của người bạn Horemheb và cả ước muốn hão huyền, thiếu thực tế của Pharaon Ekhnaton mà Sinuhe từng cổ súy, khiển dương.
Dưới ngòi bút tài hoa của Waltari, nhiều khi Kaptah xuất hiện như một nhà thông thái. Đây là những lời Kaptah động viên Sinuhe hãy quên đi tội lỗi tuổi trẻ của mình để rời Ai Cập đến Syria sống và hành nghề: “Hành động của con người giống như một hòn đá bị ném xuống nước. Nó bị rơi rất mạnh và nước bắn lên, nhưng sau một thời gian nước lại phẳng và không nhìn thấy đá. Ký ức của con người cũng giống như vậy.” Đây là những lý do Kaptah giãi bày với Sinuhe về việc mua quán rượu Đuôi Cá Sấu: “Tôi cũng nghĩ nghề chủ quán chắc chắn nhất và đáng tin cậy nhất trong tất cả các nghề, vì dù có thế nào thì con người vẫn khát và dù quyền lực của pharaoh lung lay, các vị thần linh phải rời quyền lực, các quán rượu và quán bia cũng không vắng khách hơn trước. Bởi lẽ con người ta uống rượu khi vui, lúc buồn phải uống rượu, và khi thất vọng lại đắm chìm trong rượu. Anh ta uống khi yêu và uống khi bị vợ đánh. Anh ta tìm đến rượu khi thất bại trong kinh doanh và tắm trong rượu mừng lợi nhuận. Thậm chí nghèo đói cũng không ngăn cản con người ta uống rượu, vì lúc đó anh ta sẽ làm việc chăm chỉ hơn để có thể tô điểm cho sự nghèo khó của mình bằng rượu.”
Còn đây là những lời Kaptah khuyên Sinuhe hãy quên đi phiền muộn và an trí tuổi già “Trên đời không có gì hoàn hảo cả, rìa của mỗi ổ bánh mì bị cháy sém, trái cây nào cũng bị sâu đục và uống rượu rồi con người ta đều cảm thấy khó chịu sau khi say. Vì thế cũng không có công lý nào hoàn hảo mà mọi công lý đều có bất công, ngay cả những việc làm tốt cũng có thể dẫn đến hậu quả xấu và ý định tốt nhất có thể gieo rắc nhiều chết chóc nhất, như trường hợp của Ekhnaton đã dạy ông.”
Mặc dù tác phẩm lấy bối cảnh ở Ai Cập cổ đại nhưng thông điệp của nó mang tính phổ quát và trường tồn với thời gian. Khi miêu tả chiến tranh và những biến động xã hội, tình bạn và tình yêu, Waltari đã thành công trong việc đúc kết những điều quan trọng nhất của con người. Hầu như ở chương nào, người đọc cũng được gặp những câu văn đầy tính triết lý. Xin trích vài ví dụ:
“Con người có thể lừa dối, mua chuộc bất cứ điều gì. Anh ta có thể mua chuộc tình yêu và quyền lực, thiện và ác, trí óc và trái tim mình, nhưng không thể mua được sinh và tử.”
“Không có sự khác biệt giữa con người với con người, ai cũng trần trụi sinh ra trên đời và trái tim con người là thước đo duy nhất giữa người với người. Không thể đo con người bằng màu da hoặc ngôn ngữ của họ, cũng không thể đo con người theo quần áo hoặc đồ trang sức, và không thể đo con người theo sự giàu có hay nghèo khó của họ mà chỉ bằng trái tim.”
![]() |
Dịch giả Võ Xuân Quế bên tượng đài trong công viên mang tên Mika Waltari ở Helsinki tháng 9/2021 (Ảnh: Bùi Việt Hoa) |
“Những lời nói xấu xa đôi khi còn nguy hiểm hơn những ngọn giáo… Những suy nghĩ nguy hiểm giống như bệnh dịch và dễ dàng lây lan từ người này sang người khác.”
Trong lời giới thiệu viết cho bản dịch tiếng Anh “The Egyptian”, nhà văn Mỹ Lynda S. Robinson viết: “Một câu chuyện phức tạp và sinh động đã làm sống lại xã hội Ai Cập cổ đại… Thật vậy, tiểu thuyết của Mika Waltari đem đến cho người đọc cảm nhận rằng họ như được đến với một thế giới đang hiện hữu mặc dù nó đã lùi vào dĩ vãng hơn ba ngàn năm”.
Còn Tạp chí Thư Viện (Library Journal) đánh giá: “Một tiểu thuyết tuyệt vời của sự uyên bác đầy ấn tượng… Nó như một bức tranh về xã hội Ai Cập cổ đại mà cho đến nay không một tác phẩm nào sánh được.”
Tác giả Mika Waltari thì thổ lộ: “Tôi phải khiêm tốn thừa nhận rằng Sinuhe rõ ràng là tác phẩm hay nhất của mình mà tôi chưa thể vượt qua. Nó thực sự là một sự đúc kết của tôi về cuộc sống cho đến nay. Bây giờ dừng lại để nghĩ về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của mình tôi thấy thật hạnh phúc đã được sống với thế giới tưởng tượng hết sức phong phú của mình.”
Vậy mà thật khó tin là cho đến khi viết xong "Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" Waltari chưa hề đặt chân tới Ai Cập. Cuốn tiểu thuyết dày tới 800 trang bằng tiếng Phần Lan (1.200 trang in trong tiếng Việt) này được ông viết chỉ trong 3 tháng mùa hè năm 1945 trên gác mái ngôi nhà nghỉ mùa hè của mẹ vợ, dựa trên những tư liệu sưu tập được từ các thư viện và trí tưởng tượng phong phú của mình.
Mika Waltari – một trong những nhà văn danh tiếng nhất Phần Lan, 17 tuổi đã xuất bản tác phẩm văn học đầu tiên.
Mika Waltari sinh tại Helsinki năm 1908. Năm 1929 ông tốt nghiệp Đại học tổng hợp Helsinki với bằng cử nhân về triết học, mỹ học và văn học. Nhưng năm 1925, trước khi vào đại học, Mika Waltari đã xuất bản tác phẩm đầu tay, "Jumalaa paossa" (Trốn khỏi Chúa).
Tác phẩm thứ 5, đồng thời là tiểu thuyết đầu tay của ông, Suuri illusioni (Ảo tưởng lớn của tôi), được xuất bản năm 1928 đã ghi tên Waltari vào văn đàn Phần Lan khi ông mới tròn 20 tuổi. Thành công của tiểu thuyết này đã phần nào giúp Mika Waltari trở thành một nhà văn chuyên nghiệp.
![]() |
Ngôi mộ của nhà văn nổi tiếng M. Waltari và vợ, hết sức giản dị trong nghĩa trang Hietalahti ở Helsinki (ảnh: Bùi Việt Hoa) |
Sau nửa thế kỷ sống với nghề văn, Waltari đã để lại một sự nghiệp đồ sộ, với 30 tiểu thuyết (trong đó có 8 tiểu thuyết lịch sử), 20 vở kịch, 15 truyện vừa và hơn 100 bài viết, phê bình. Thật bất ngờ, "Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" - tiểu thuyết lịch sử đầu tiên, lại là tác phẩm chính lưu danh tên tuổi của Waltari. Ở Phần Lan có giai thoại rằng nếu ai đó chỉ đọc một cuốn sách trong đời thì cuốn sách nên đọc là "Người Ai Cập-Quyền lực và Tình yêu" của Waltari.
Mika Waltari đã 5 lần được trao Giải thưởng Văn học Nhà nước của Phần Lan. Từ năm 1957, ông đã được bầu vào Viện Hàn lâm Phần Lan. Waltari qua đời ở Helsinki vào ngày 26 tháng 8 năm 1979.
Lê Lam