Sau 5 năm sức khoẻ xuống dốc vì bệnh phổi, Nhà văn, nhà biên kịch Lê Phương đã ra đi mãi mãi ở tuổi 90. Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Điện ảnh Việt Nam cùng gia đình đã tổ chức lễ tang cho nhà văn Lê Phương. Đông đảo văn nghệ sĩ đã đến tiễn đưa nhà văn nhà biên kịch Lê Phương như NSND, đạo diễn Đặng Nhật Minh, NSƯT Thanh Tú, PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ...
|
Trong điếu văn nhà văn nhà biên kịch Lê Phương, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam đã nhấn mạnh: "Hôm nay chúng ta ở đây để tiễn đưa một người - một CON NGƯỜI đúng với nghĩa cao đẹp nhất của từ viết hoa ấy - dù ông - nhà văn, nhà điện ảnh Lê Phương chưa từng có danh hiệu nào khác ngoài danh xưng nghề nghiệp đã gắn với ông suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Nhà văn Lê Phương là người ham đi. Những chuyến đi thực tế dài ngày mà ông vẫn tự gọi là "những cuộc đi tìm bạn" đã cho ông không chỉ những trang viết đầy xúc cảm, chính xác về tư liệu chuyên ngành ở cấp chuyên gia… mà còn cho ông những người bạn chân tình, thủy chung…
Nói về thành tựu của nhà văn - nhà điện ảnh Lê Phương thật không dễ dàng bởi vùng hoạt động của ông rất rộng lớn. Giờ ông đã ngồi trên xe mây về cõi vĩnh hằng, và ở bất cứ chốn nào trong vũ trụ vô tận này, những người yêu quý ông vẫn tin rằng, ông vẫn sống như thế: chân thành, đam mê, khảng khái và khiêm nhường".
| |
PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ cùng các văn nghệ sĩ nghiêng mình trước nhà văn, nhà biên kịch Lê Phương. |
Nhà văn Lê Phương tên khai sinh là Nguyễn Văn Tiến, sinh năm 1933 tại làng Thiết Úng (tên Nôm là làng Ống), xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông tham gia quân đội khi mới 16 tuổi theo tiếng gọi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1953, ông chuyển hẳn sang bộ đội chính quy, tham gia vào cuộc khảo sát các tuyến đường chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Từ trải nghiệm nhiệm vụ này, truyện ký Thử lửa ra đời nói về một đội thanh niên xung phong đang mở đường thì gặp máy bay của Pháp oanh tạc, được in trên báo Cứu Quốc Quân gây chú ý cho những người chỉ huy đang rất cần tìm kiếm những cây bút trẻ với sức viết mãnh liệt, tươi mới… Năm 1960, ông trở thành nhà báo rồi nhà văn chuyên viết về công nhân. Bất khuất là cuốn tiểu thuyết đầu tiên về vùng mỏ của Lê Phương được Nhà xuất bản Lao Động in lần đầu năm 1963.
Trong thời gian từ năm 1963-1978, 15 năm dành cho văn học, Lê Phương đã cho ra đời khoảng 7 cuốn tiểu thuyết về đủ các lĩnh vực liên quan đến kiến thức chuyên môn sâu như Pháo đài 44 (về các chiến sĩ pháo cao xạ bảo vệ cầu Hàm Rồng, 1965); Thung lũng Cô Tan (địa chất, 1973); Bạch Đàn (lâm nghiệp, 1975); Ngã ba thời gian (thủy lợi, 1978); Bông mai mùa lạnh, Vết xích đường mòn…
Ông bắt đầu đến với ngành điện ảnh vào năm 1977 để rồi sau đó trở thành nhà biên kịch lão luyện. Ông viết không nhiều, nhưng mỗi bộ phim được làm từ kịch bản của ông đều để lại những ấn tượng mạnh mẽ cho khán giả. Đó là kịch bản của những bộ phim như: Nơi gặp gỡ của tình yêu (2 tập, 1980) đến Biệt động Sài gòn (4 tập cùng với Nguyễn Thanh) hay những kịch bản được chính ông chuyển thể từ tiểu thuyết của mình (Cơn lốc biển chuyển thể từ tiểu thuyết Bất khuất)…
Đặc biệt ở giai đoạn từ sau năm 1990, ông bắt đầu chuyển sang viết kịch bản phim truyền hình dài tập mà ông thường gọi là "tiểu thuyết truyền hình". Ở lĩnh vực này ông tiếp tục gặt hái thành công, đặc biệt là với bộ phim Giọt nước mắt giữa hai thế kỷ - một trong những bộ phim truyền hình dài tập đầu tiên của Việt Nam (do Công ty nghe nhìn Hà Nội sản xuất).
Sau Giọt nước mắt giữa hai thế kỷ là hàng loạt kịch bản phim truyền hình của một thời phim truyền hình phát triển khá đặc biệt ở Việt Nam, khi mà những bộ phim truyền hình thường được làm trau chuốt, kỹ càng, sâu sắc như những bộ phim điện ảnh: Ngã ba thời gian, Con nhện xanh, Mã số thần kỳ, Nước mắt đàn bà, Tổ ấm, Chiều không nhạt nắng…
Điều đặc biệt, những kịch bản này đã được ông viết chung với người vợ tâm đầu ý hợp của mình - nhà biên kịch Trịnh Thanh Nhã. Nói đến vợ chồng ông trong giới văn nghệ đều kính nể và trân trọng bởi hai nhà biên kịch đã cùng sống, cùng làm việc và trọn vẹn yêu thương.
Về mối tình đặc biệt đó phải kể đến thời điểm, khi bà Trịnh Thanh Nhã về Hãng Phim truyện Việt Nam làm việc thì ông Lê Phương là Xưởng phó phụ trách biên tập của xưởng 3. Kịch bản đầu tiên của Trịnh Thanh Nhã là Chuyện cổ tích dành cho tuổi 17 do ông Phương trực tiếp hướng dẫn.
Ông Lê Phương đã bắt Trịnh Thanh Nhã sửa đi sửa lại kịch bản những năm lần, lần nào đi ra khỏi phòng làm việc của ông nữ biên kịch trẻ cũng rơi nước mắt. Tới lần thứ sáu Trịnh Thanh Nhã đã từng nghĩ "nếu lần này ông ấy từ chối mình sẽ ném kịch bản vào ông ấy và bỏ nghề".
Bất ngờ lần thứ sáu, Lê Phương bắt cô biên kịch trẻ phải đọc to thành tiếng. Sau khi đọc xong, Trịnh Thanh Nhã hỏi: "Chú thấy thế nào?", Lê Phương trả lời "có nghe đâu mà biết là thế nào?". Nhưng sau đó ông trấn an biên kịch trẻ ông đã nghe hết và thấy ổn.
Kịch bản được đưa vào sản xuất và phim ra mắt năm 1988. Chuyện cổ tích dành cho tuổi 17 đã giành được 4 giải vàng dành cho kịch bản phim, đạo diễn phim, quay phim và họa sĩ thiết kế tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 (1988).
Mãi sau này bà Nhã mới biết trong lúc bà đọc kịch bản thì ông Phương mải ngắm bà. Thời đó, bà sợ ông như sợ cọp vì trong công việc ông rất "phũ mồm". Sau khi phim sản xuất bà Nhã gần như tránh gặp ông Phương, vì sợ bị gọi vào sửa kịch bản.
![]() |
Hội Điện Ảnh Việt Nam tại lễ tiễn biệt nhà văn, nhà biên kịch Lê Phương. |
Sau hơn một năm làm việc với các biên kịch khác mà vẫn chưa ra được sản phẩm nào, cuối cùng bà Trịnh Thanh Nhã quay về làm việc với ông Lê Phương. Không tính toán tình yêu như sự sắp đặt sẵn dành cho ông bà Lê Phương - Trịnh Thanh Nhã họ đã về chung một nhà. Và ba mươi năm bên nhau, cả hai đã đi qua giai đoạn tình yêu nồng nhiệt nay một người mắt đã mờ, chân đã chậm, đến giai đoạn bà chăm ông và đi qua những khó khăn vất vả của những năm cuối đời cùng chồng. Nhìn gương mặt của ông Phương lúc nào cũng có nét cười tủm tỉm. Đó là gương mặt của một người đàn ông hạnh phúc. Sau nhiều năm chung sống, ông đã nói với bà: "Đến bây giờ tôi hiểu vì sao người ta gọi vợ là "nhà tôi".
"Ông là người am tường, có nhiều kiến thức chuyên môn sâu ở nhiều lĩnh vực. Là người đọc nhiều và có ý thức thu nạp kiến thức rất nghiêm túc, chính nhờ sự dày công thu thập tư liệu và đời sống thực tế để đưa vào tác phẩm nên ông có nhiều tác phẩm nổi trội trong các lĩnh vực khác nhau. Nói đến Lê Phương, chúng ta còn nhớ đến một con người bình dị, khiêm nhường, không màng đến những bon chen đời thường thậm chí là những danh hiệu, giải thưởng...
Sinh thời nổi tiếng là người hóm hỉnh, hay chuyện; nhưng ông chẳng bao giờ nói về mình đúng như cái cách ông hằng tâm niệm về lẽ đời: Con người sinh ra lặng lẽ, thì cũng ra đi không dấu tích để lại. Nhưng - như ngược lại triết lý sống an yên này - hình ảnh ông còn đó, những kinh nghiệm nghề nghiệp của ông truyền thụ cho đồng nghiệp và thế hệ người làm nghề tiếp nối, những tác phẩm văn học và kịch bản điện ảnh đa dạng về đề tài và ngôn ngữ thể hiện ông đã sáng tạo nên, lại không như vệt sao băng mà biến đi sau phút chói lòa. Nó sẽ còn đó và lặng lẽ tỏa hương”, ông Nguyễn Văn Tân, Phó Chủ tịch Hội Điện Ảnh Việt nam chia sẻ./.